Để ghi công, bà được triều đình giao cai quản vùng đất người Mường ở Hòa Bình. Tại đây, bà giúp nhân dân ổn định cuộc sống, dạy mọi người lên rẫy làm nương, xuống sông Đà thả lưới bát cá; khi thanh nhàn, bà lại một mình chèo thuyền độc mộc dọc theo sông Đà du ngoạn thắng cảnh.
Sau khi bà qua đời, vua Lê Lợi lệnh dân bản xứ lập đền thờ bà bên cạnh thác Bờ và phong bà là Nữ chúa.
Trước đây, tại xã Hào Tráng, huyện Đà Bắc có một ngôi miếu và một ngôi đền đều thời chúa Thác Bờ. Miếu và đền đều có thủ nhang riêng. Khi đập thủy điện Hòa Bình được xây dựng, thủ nhang miếu đưa miếu lên xã Thung Nai, huyện Cao Phong và trở thành đền Chúa Thác Bờ Thung Nai; thủ nhang đền đưa đền lên xã Vầy Nưa, huyện Đà Bắc và trở thành đền Chúa Thác Bờ Vầy Nưa.
Tín ngưỡng dân gian vùng Tây Bắc mà phổ biến nhất là miền Hòa Bình, bà là vị chúa bà nổi tiếng linh thiêng bậc nhất của đất Hòa Bình. Nhân dân nơi đây thường đến kêu cầu, cúng lễ để xin lộc chúa chữa bệnh cũng như cầu phúc lộc vào mỗi dịp xuân sang, thu hút hàng ngàn lượt khách. Cũng tại nơi đây vẫn còn lưu truyền nhiều huyền tích về sự linh thiêng ứng nghiệm của Chúa.